Thay đổi tuân thủ quy trình đặt thông tiểu ngắt quãng sạch trong điều trị bàng quang thần kinh ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương sau tập huấn

TAY - TÂM - TRÍ - TỰ HÀO
PDF Download: 222 View: 519

Ngôn ngữ sử dụng

Cách trích dẫn

Trần, N. Y., Trịnh, T. T., Trịnh, T. H., Vũ, T. M. H., & Nguyễn, Đức T. (2022). Thay đổi tuân thủ quy trình đặt thông tiểu ngắt quãng sạch trong điều trị bàng quang thần kinh ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương sau tập huấn . Tạp Chí Khoa học Điều dưỡng, 5(03), 62–71. https://doi.org/10.54436/jns.2022.03.443

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.

Tóm tắt

Mục tiêu: Mô tả thay đổi tuân thủ quy trình đặt thông tiểu ngắt quãng sạch(CIC) của người chăm sóc chính cho trẻ em bị bệnh bàng quang thần kinh đến tái khám tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2021.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp có so sánh trước sau trên 47 trẻ bị bệnh àng quang thần kinh đến tái khám và 47 người tham gia chính đặt thông tiểu cho trẻ tại Bệnh viện Nhi Trung ương được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2021.

Kết quả: Trẻ được đặt CIC 3-4 lần/ngày lần chiếm tỷ lệ cao nhất (51,1%) tiếp theo là từ 5 lần trở lên (38,3%), thấp nhất là 1-2 lần chiếm tỷ lệ 10,6% trước tập huấn mức độ tuân thủ quy trình đặt CIC đạt mức tốt có tỷ lệ thấp (32%), nhiều người thực hiện chưa đúng hoặc chưa đủ các bước trong quy trình. Ngay sau tập huấn, tỷ lệ tuân thủ đạt mức tốt là 100%. Sau 3 tháng được tập huấn và thực hành tại nhà, tỷ lệ tuân thủ đạt mức tốt là 83%. Hầu hết các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng đã giảm rõ rệt sau khi được tập huấn và thực hành thông tiểu ngắt quãng sạch.

Kết luận: Mức độ tuân thủ quy trình đặt CIC cho trẻ sau tập huấn có thay đổi rõ rệt, tỷ lệ tuân thủ quy trình đạt mức tốt tăng lên tập huấn và thực hành tại nhà.Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng giảm rõ, trong đó 3 triệu chứng có sự khác biệt ý nghĩa thống kê p<0,01: Trẻ bị táo bón, nước tiểu đục, kết quả xét nghiệm cấy nước tiểu có vi khuẩn. Do đó, cần đề xuất các biện pháp nâng cao mức độ tuân thủ đặt thông tiểu ngắt quãng sạch cho trẻ bị bệnh bàng quang thần kinh.

https://doi.org/10.54436/jns.2022.03.443

Từ khóa

CIC, bàng quang thần kinh, thông tiểu ngắt quãng sạch CIC, neurogenic bladder, clean intermittent catheterization
PDF Download: 222 View: 519

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Duy Việt, Lê Anh Dũng, Nguyễn Thanh Liêm (2015), “Phân tích những yếu tố nguy cơ tổn thương thận ở bệnh nhân thoát vị tủy màng tủy, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 5, tr.197-200.

Nguyễn Thanh Liêm (2002), “Bàng quang thần kinh và tạo hình tăng dung tích bàng quang”, Phẫu thuật tiết niệu trẻ em, NXB Y học, Hà Nội, tr. 138-151.

Cầm Bá Thức, Nguyễn Thị Dương, Cao Văn Vương (2015), “Nghiên cứu kết quả điều trị bàng quang thần kinh ở bệnh nhân tổn thương tủy sống bằng phương pháp đặt thông tiểu sạch ngắt quãng”, Tạp chí Y học thực hành , 11(851), tr.44-46.

Hà Thị Thu Thủy (2012), “Đánh giá hiệu quả đặt thông tiểu sạch ngắt quãng trong điều trị bàng quang thần kinh ở trẻ em”, Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 16(Phụ bản của Số 4), tr. 68-71.

Rensing J.A, Szymanski M.K, Misseri R et al. (2019), “Radiographic abnormalities, bladder interventions, and bladder surgery in the first decade of life in children with spina bifida”, Pediatric Nephrology, 34(7), pp. 1277-1282. doi: 10.1007/s00467-019-04222-w.

Kanaheswari Y and Mohd Rizal M.A (2015), “Renal scarring and chronic kidney disease in children with spina bifida in a multidisciplinary Malaysian centre”, Journal of Paediatrics and Child Health, 51(12), pp. 1175-1181. doi: 10.1111/jpc.12938

Bộ Y tế (2018), Hướng dẫn chăm sóc điều dưỡng cho người bệnh nứt đốt sống và não úng thủy (Ban hành kèm theo Quyết định số 5623/QĐ-BYT ngày 21/9/2018 của Bộ trưởng Bộ Y tế).

Nguyễn Duy Việt (2021), Nghiên cứu đặc điểm bệnh lý và kết quả đặt thông tiểu ngắt quãng sạch điều trị bàng quang thần kinh ở bệnh nhân sau phẫu thuật tủy-màng tủy, Luận án Tiễn sĩ Y học, Trường ĐH Y Hà Nội, Hà Nội.

Kroll P, Gajewska E, Zachwieja J et al. (2016), “An Evaluation of the Efficacy of Selective Alpha-Blockers in the Treatment of Children with Neurogenic Bladder Dysfunction--Preliminary Findings”, Int J Environ Res Public Health, 13(3), pp. 321. doi: 10.3390/ijerph13030321

Roshanzamir F, Rouzrokh M, Mirshemirani A et al (2014), “Treatment Outcome of Neurogenic Bladder Dysfunction in Children; A Five-Year Experience”, Iranian Journal of Pediatrics, 24(3), pp. 323-326.

Han S.C, Kim S, Radadia D.K et al. (2017), “Comparison of Urinary Tract Infection Rates Associated with Transurethral Catheterization, Suprapubic Tube and Clean Intermittent Catheterization in the Postoperative Setting: A Network Meta-Analysis”, Journal of Urology, 198(6), pp. 1353-1358. https://doi.org/10.1016/j.juro.2017.07.069

Sturm M.R and Chng Y.E (2016), “The Management of the Pediatric Neurogenic Bladder”, Curr Bladder Dysfunct Rep, 11, pp. 225-233. doi: 10.1007/s11884-016-0371-6

Kavoussi R.L, Novick C.A, Partin W.A et al (2012), Campbell-Walsh Urollogy, 10th, Elsevier, Philadelphia - USA.

Li Y, Wen Y, He X et al. (2018), “Application of clean intermittent catheterization for neurogenic bladder in infants less than 1 year old”, NeuroRehabilitatio, 42(4), pp. 377-382. doi: 10.3233/NRE-172366

Tang F, Cheng Z, Wen X (2019), “Effect of continuous care intervention on the quality of life in patients with neurogenic bladder dysfunction”, Journal of International Medical Research, 47(5), pp. 2011-2017. doi: 10.1177/0300060519833563

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại 4.0 International Giấy phép .

Bản quyền (c) 2022 Tạp chí Khoa học Điều dưỡng